NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN KINH TẾ
Kinh tế học là một nhánh của khoa học xã hội nghiên cứu
sản xuất,
phân phối và
tiêu dùng các
hàng hóa và
dịch vụ. Từ "economics" (nghĩa là: kinh tế học) trong
tiếng Anh (và các chữ tương tự như: "économiques" trong
tiếng Pháp, "Ökonomik" trong
tiếng Đức) bắt nguồn từ
tiếng Hy Lạp với "oikos" là "nhà" và "nomos" là "quy tắc" hay "quy luật", nghĩa là "quy tắc quản lí gia đình". Trong tiếng Việt, từ "kinh tế" là một
từ Hán Việt, rút gọn từ cụm từ "kinh bang tế thế"(nghĩa là: trị nước, giúp đời) và từ "học" là một từ Hán Việt có nghĩa là "tiếp thu tri thức" thường được đi kèm sau tên các ngành khoa học (như "ngôn ngữ học","toán học"). Nội dung của
khái niệm kinh tế đã mở rộng cùng với sự phát triển
xã hội và
nhận thức của con người. Kinh tế được xem là một lĩnh vực hoạt động của xã hội loài người trong việc tạo ra
giá trị đồng thời với sự tác động của con người vào thiên nhiên nhằm thỏa mãn
nhu cầu của con người và xã hội. Xuất phát từ nhận thức sự phát triển những mối quan hệ trong quá trình đó đã hình thành một môn khoa học, gọi là khoa học kinh tế, gồm tập hợp các ngành khoa học được chia thành hai nhóm:
Sản xuất,
tiêu dùng,
tiết kiệm,
đầu tư, mua quà tặng hay đi du lịch... mỗi hành động của con người hiện đại đều ngầm chứa một
hành vi kinh tế, vậy nên thật khó có thể đưa ra một định nghĩa kinh tế học vừa đơn giản mà lại vừa bao quát vấn đề.
Mặc dù, những cuộc thảo luận về sản xuất và phân phối đã trải qua một qúa trình lịch sử lâu dài, kinh tế học được xem là một khoa học độc lập chỉ được xác định chính thức vào thời điểm xuất bản cuốn sách "Của cải của các dân tộc" viết bởi
Adam Smith năm
1776. Smith dùng thuật ngữ "kinh tế chính trị" để gọi tên môn khoa học này, nhưng dần dần, thuật ngữ này đã được thay thế bằng thuật ngữ "kinh tế học" từ sau năm 1870. Ông cho rằng "sự giàu có" chỉ xuất hiện khi con người có thể sản xuất nhiều hơn với nguồn lực lao động và tài nguyên sẵn có. Như vậy, theo Smith, định nghĩa kinh tế cũng là định nghĩa về sự giàu có
[1].
John Stuart Mill định nghĩa khoa học kinh tế là “khoa học ứng dụng của sản xuất và phân phối của cải”
[2]. Định nghĩa này được đưa vào
từ điển tiếng Anh rút gọn Oxford mặc dù nó không đề cập đến vai trò quan trọng của tiêu thụ. Đối với Mill
của cải được xác định như toàn bộ những vật thể có ích.
Định nghĩa được xem là bao quát nhất cho kinh tế học hiện đại do
Lionel Robbins đưa ra là: “Khoa học nghiên cứu hành vi con người cũng như mối quan hệ giữa nhu cầu và nguồn lực khan hiếm, trong đó có giải pháp chọn lựa cách sử dụng”
[3] . Theo ông,
sự khan hiếm nguồn lực có nghĩa là tài nguyên không đủ để thỏa mãn tất cả mọi ước muốn và
nhu cầu của mọi người. Không có sự khan hiếm và các cách sử dụng nguồn lực thay thế nhau thì sẽ không có vấn đề kinh tế nào cả. Do đó, kinh tế học, giờ đây trở thành khoa học của
sự lựa chọn bị ảnh hưởng như thế nào bởi các
động lực khuyến khích và các
nguồn lực.
Một trong các ứng dụng của kinh tế học là giải thích làm thế nào mà
nền kinh tế, hay
hệ thống kinh tế hoạt động và có những mối quan hệ nào giữa những người chơi (
tác nhân) kinh tế trong một xã hội rộng lớn hơn. Những phương pháp phân tích vốn ban đầu là của kinh tế học, giờ đây, cũng được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực khác liên quan đến sự lựa chọn của con người trong các tình huống xã hội như
tội phạm,
giáo dục,
gia đình,
khoa học sức khoẻ,
luật,
chính trị,
tôn giáo,
thể chế xã hội hay
chiến tranh.
Kinh tế học lý luận là phần quan trọng nhất của khoa học kinh tế, tạo ra cơ sở lý luận để phát triển kinh tế học ứng dụng. Bằng các cách tiếp cận khác nhau các nhà nghiên cứu muốn đưa ra những học thuyết hợp lý nhằm làm sáng tỏ bức tranh hoạt động kinh tế của xã hội và theo đó, sử dụng học thuyết để làm công cụ phân tích và dự đoán những xu hướng kinh tế. Các lý thuyết kinh tế được xây dựng từ các
phạm trù của kinh tế như:
giá trị,
lao động,
trao đổi,
tiền tệ,
tư bản v.v. Trong đó các phạm trù của kinh tế đóng vai trò như những công cụ nhận thức riêng biệt. Các quá trình kinh tế được xem là cơ bản và là đối tượng nghiên cứu của khoa học kinh tế là sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu thụ hàng hóa. Tuy nhiên nhiều sự vật, hiện tượng, quá trình mới, đã vượt khỏi khuôn khổ của các phạm trù được xác lập từ trước, làm suy yếu tính lý giải và khả năng phân tích của nhiều học thuyết. Mặt khác, các học thuyết riêng biệt cũng chỉ làm sáng tỏ phần nào đó của đời sống kinh tế mà thôi. Kinh tế học lý luận vẫn còn đang tiếp tục sửa đổi, bổ sung và phát triển. Người nhận giải thưởng Nobel kinh tế năm 1988
Maurice Allais nhận định vấn đề phát triển kinh tế học lý luận như sau: “Cũng như vật lý học hiện nay cần một lý thuyết thống nhất về vạn vật hấp dẫn, các ngành khoa học nhân văn cần một lý thuyết thống nhất về hành vi con người”
[4]. Vấn đề đó đến nay vẫn còn là một khoảng trống trong khoa học kinh tế.
Kinh tế học là việc nghiên cứu xem xã hội quyết định các vấn đề sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai.
[